Số 18/2012: BIDV tổ chức tọa đàm đánh giá thực trạng hoạt động và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Doanh nghiệp
A. Những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong ngành hàng chủ lực:
Năm 2011 và những tháng đầu năm 2012, kinh tế Việt Nam với nhiều thách thức lớn với lạm phát tăng cao, đầu tư trong nước giảm do thắt chặt tiền tệ, tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động. Trước thực trạng chung của nền kinh tế, hoạt động của các ngành hàng chủ lực gặp không ít khó khăn, cụ thể:
- Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Bất động sản: Nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản đang phải đối mặt với nhiều thách thức như nợ lớn, hàng tồn kho nhiều, không còn nguồn vốn để đầu tư, hoàn thiện dự án… đã gây ra tình trạng nhiều dự án bất động sản buộc phải dừng vô thời hạn do năng lực tài chính của chủ đầu tư. Theo báo cáo của Bộ KHĐT, trong quý I/2012 có 2.400 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản làm thủ tục giải thể; 11.600 doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động có thời hạn hoặc dừng thực hiện các nghĩa vụ thuế.
- Đối với các doanh nghiệp thuộc ngành vật liệu xây dựng: Nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh nợ nần chồng chất, một số doanh nghiệp không trụ nổi dẫn đến phá sản. Lượng hàng tồn kho ngày một lớn, trong khi chi phí cho sản xuất tăng mạnh do các nhiên liệu đầu vào: điện, than, xăng dầu… tăng giá mạnh, lãi suất vay vốn cao khiến Doanh nghiệp càng gặp khó khăn. Xi măng hiện có lượng hàng tồn kho vào khoảng 3,5 triệu tấn; gạch ốp lát tồn kho trên 30 triệu m2, lượng thép thành phẩm tồn kho gần 400 nghìn tấn, lượng phôi tồn kho trên 500 nghìn tấn… Con số này được dự báo sẽ còn tăng lên trong thời gian tới khi nguồn cung trong nước vẫn dồi dào, trong khi nhiều công trình xây dựng vẫn tiếp tục cắt giảm.
- Đối với các Doanh nghiệp thuộc ngành dệt may: Các Doanh nghiệp đang đối mặt với nhiều khó khăn khi đơn đặt hàng trong quý 3, quý 4 đang ngày càng hạn chế. Một số doanh nghiệp dệt may xuất khẩu đang thiếu đơn hàng xuất khẩu, tình hình hợp đồng xuất khẩu sang 3 thị trường chính đang giảm 10% – 15% so với đầu năm.
- Đối với các Doanh nghiệp thuộc ngành xuất khẩu cà phê: Khả năng tài chính hạn chế, ngay từ đầu năm 2012 nhiều doanh nghiệp thực hiện thu mua, tạm trữ cà phê trong thời gian dài hơn nhưng các TCTD chỉ xem xét cho vay trong thời gian 1-3 tháng nên doanh nghiệp kinh doanh cà phê gặp khó khăn trong thanh toán, hoàn trả nợ vay.
Lãi suất vay Ngân hàng cao làm phát sinh tăng nhiều chi phí, đẩy giá thành lên cao dẫn đến việc các doanh nghiệp trong nước kém khả năng cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp FDI trong thị trường thu mua cà phê.
Một khó khăn khác cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê đang đối mặt là việc đưa xuất khẩu cà phê vào diện kinh doanh có nhiều điều kiện, tiêu chí mới đối với các doanh nghiệp được phép xuất khẩu cà phê nhằm siết chặt hoạt động kinh doanh, xuất khẩu cà phê.
- Đối với các Doanh nghiệp ngành Chế biến Thuỷ sản: Thiếu nguyên vật liệu: Theo báo cáo của ngành thủy sản, từ đầu năm đến nay, các doanh nghiệp chế biến chỉ hoạt động từ 50 đến 60% công suất do thiếu nguyên liệu, doanh nghiệp phải tăng cường nhập khẩu 20 - 30% sản lượng từ các nước như: Ấn Ðộ, Xri Lan-ca, Thái-lan, Trung Quốc...
Thiếu vốn kinh doanh: Sau những thông tin xấu về phá sản của một vài công ty xuất khẩu cá tra, các TCTD càng thắt chặt tín dụng ngay cả đối với các doanh nghiệp có dự án phát triển sản xuất và xuất khẩu tốt, làm hàng loạt công ty gặp khó khăn trong việc xoay vòng vốn để tiếp tục duy trì sản xuất, nhiều nhà máy rơi vào tình trạng ngưng hoạt động. Theo Vasep, hiện có hơn 50% các nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu ngừng hoạt động hoặc đang hoạt động cầm chừng.
Giảm sức cạnh tranh do chính sách bất cập: Các doanh nghiệp thuỷ sản hiện đang đối mặt với hai vấn đề lớn là, kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm và các loại thuế, phí xuất khẩu. (Hiện chi phí kiểm nghiệm lô hàng trước khi xuất khẩu đã tăng 1,5 đến 2 lần so với trước khi Luật An toàn thực phẩm có hiệu lực.
- Đối với các Doanh nghiệp ngành cao su: Chưa có chính sách phối hợp quản lý giữa các cơ quan Nhà nước nên có hiện tượng mất cân đối giữa vùng nguyên liệu và nhà máy sơ chế cao su, thường xảy ra việc tranh mua tranh bán nguồn nguyên liệu gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Thuế xuất khẩu cao su (3%) áp dụng vào thời điểm giá xuống thấp và thị trường tiêu thụ thu hẹp nên làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các nước khác.
Thuế Bảo vệ môi trường áp trên bao bì nhựa kể cả bao ni-lông bọc gói cao su xuất khẩu và sản phẩm cao su xuất khẩu làm tăng giá thành, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu (tăng 250.000 đồng/tấn cao su trên tổng giá thành 40 triệu/tấn).
- Đối với các Doanh nghiệp ngành Gạo: Năm 2012 được đánh giá là năm khó khăn đối với thị trường gạo vì sản lượng dồi dào trong khi tồn kho tăng liên tục trong 5 năm liên tiếp, hiện đang ở mức kỷ lục, trên 100 triệu tấn.
Ngành gạo đang đối mặt với việc thiếu đơn hàng trầm trọng cũng như sự cạnh tranh gay gắt về giá cả từ các nước xuất khẩu gạo khác. Nguyên nhân chủ yếu do Việt Nam không ký được hợp đồng xuất khẩu gạo là do giá gạo hiện cao hơn khoảng 100 USD/tấn so với các nước xuất khẩu khác, như: Ấn Độ, Pakistan, Myanmar.
- Đối với các Doanh nghiệp ngành Gỗ: Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, các dự án phát triển rừng nguyên liệu chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến sản lượng gỗ phục vụ cho chế biến XK không được cải thiện. Công tác xây dựng mạng lưới chế biến gỗ trên toàn quốc chưa có sự thống nhất để sử dụng nguồn nguyên liệu vốn đang rất khan hiếm.
Các doanh nghiệp chế biến gỗ chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, yếu về năng lực quản lý, thiếu công nhân kỹ thuật, thiếu vốn, công nghệ chế biến còn thô sơ và mang nặng tính thủ công.
B. Các giải pháp hỗ trợ của chính phủ, bộ ban ngành thời gian qua.
Về phía chính phủ:
Những tháng cuối năm 2011 và đầu năm 2012, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp, giải pháp điều hành nền kinh tế nhằm hỗ trợ Doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động SXKD, cụ thể:
- Điều hành chính sách tiền tệ theo hướng giảm lãi suất tín dụng, bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giải quyết hài hòa các mục tiêu: kiềm chế lạm phát, giải quyết thanh khoảng của hệ thống ngân hàng thương mại và ổn định tỷ giá ngoại tệ; ưu tiên vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động, chương trình xây dựng nhà xã hội.
- Trong tháng 4/2012, Chính phủ đã hoàn thành trình Quốc Hội xem xét đề án tái cơ cấu Kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến 2020 .
- Ngoài ra, Chính phủ còn đưa ra một số giải pháp cụ thể đối với một số ngành, cụ thể như sau:
+ Đối với lĩnh vực Bất Động sản: Ban hành Chỉ thị 2196/CT-TTg ngày 08/12/2011 về tăng cường quản lý thị trường BĐS, theo đó có một số chính sách tác động tích cực đến thị trường bất động sản như: Chính sách tăng trưởng tín dụng BĐS; Chính sách về nguồn vốn cho BĐS; Chính sách thuế BĐS, ….
+ Đối với ngành gạo: Ban hành Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 09/03/2012 yêu cầu các Doanh nghiệp lương thực thực hiện thu mua tạm trữ tối đa 1 triệu tấn quy gạo vụ Đông Xuân 2011-2012.
Về phía Ngân hàng Nhà nước:
Nhằm giải quyết bớt những khó khăn cho các doanh nghiệp, ngay khi kinh tế vĩ mô đã bắt đầu có dấu hiệu ổn định, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức:
- Ban hành văn bản số 1479/NHNN-TD, ngày 14/03/2012 chỉ đạo cụ thể một số TCTD, trong đó có BIDV triển khai hỗ trợ cho các Doanh nghiệp vay mua tạm trữ thóc gạo vụ Đông Xuân.
- Ban hàng văn bản số 2056/NHNN-CSTT ban hành ngày 10/4/2012. Theo đó:
+ Đối với các khoản vay phi sản suất BĐS tiếp tục hạn chế mức 16% tổng dư nợ, nhưng một số khoản vay sẽ được loại trừ như: Xây dựng, mua nhà để ở, hoặc để ở kết hợp cho thuê mà các khoản vay này khách hàng trả nợ bằng các nguồn thu nhập không phải là tiền lương, tiền công; Xây dựng mua nhà để bán, cho thuê; Xây dựng các dự án trong khi đô thị hoàn tất trong năm 2012 và sau năm 2012.
+ Đồng thời các NHTM được quyền xem xét tái cơ cấu các khoản nợ quá hạn đối với các khoản vay không trả nợ đúng hạn do tình hình khó khăn chung cả nước cũng như thế giới, kéo theo mức tiêu thụ và xuất khẩu giảm, ứ đọng tồn kho Chính sách này tạo cơ hội đặc biệt cho BĐS tăng trưởng nguồn cầu.
- Ban hành các văn bản điều chỉnh hạ lãi suất trần huy động từ 14% xuống 12%/năm, tạo nền tảng để kéo thấp lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp;
- Ban hành Quyết định số 857/QĐ-NHNN, ngày 02/5/2012 về việc cho vay ngoại tệ đối với người cư trú, trong đó cho phép các DN có nguồn thu ngoại tệ được phép vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển đổi ra VND để thanh toán các nhu cầu trong nước.
Về phía Bộ tài chính:
Bộ Tài chính đã đề xuất lên Chính phủ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Doanh nghiệp, trong đó có việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và gia hạn thuế giá trị gia tăng (VAT). Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất giảm 30% thuế TNDN năm 2012 đối với các DN vừa và nhỏ, DN sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực nông lâm, thủy sản, da giày, dệt may... giảm 50% tiền thuê đất đối với các Doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực du lịch, dịch vụ, thương mại. Gia hạn thuế TNDN tối đa hai tháng cho các Doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Đối với hộ kinh doanh nhà trọ khu công nghiệp thì được miễn thuế VAT.
- Thực hiện nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát giá. Nhiều loại hàng nhập khẩu được giảm thuế để giúp Doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào như gas, xăng dầu…
- Tăng thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, nhiều mặt hàng hạn chế nhập khẩu để hỗ trợ sản xuất trong nước và đã có hướng dẫn mới về thuế GTGT theo đó, mở rộng đối tượng không chịu thuế và đối tượng chịu thuế suất 0%. Các tổ chức kinh tế hoạt động trong các ngành sản xuất đã được giảm 50% tiền thuê đất…
Về phía Bộ Xây dựng:
- Bộ Xây dựng cũng đang tiến hành nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Vật liệu xây dựng, trong đó tập trung phối hợp Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh chương trình làm đường bằng bê-tông và đẩy mạnh các chương trình nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội.
- Đối với ngành sản xuất VLXD, do trong thời gian qua các nhà máy xi-măng được đầu tư xây dựng với quy mô lớn bị chịu ảnh hưởng nhiều, Bộ Xây dựng đã đề xuất các giải pháp tăng cường phối hợp giữa các doanh nghiệp xi măng với nhau và với Hiệp hội xi-măng trong việc xuất khẩu sản phẩm một cách hiệu quả nhất nhằm tăng tỷ lệ xuất siêu, thu hồi ngoại tệ, giảm áp lực tiêu thụ nội địa, khắc phục tình trạng chênh lệch tỷ giá đầu tư của các dây chuyền bắt đầu đến thời hạn trả nợ. Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng cũng đã đề xuất Chính phủ tăng cường chỉ đạo các đơn vị sử dụng các thiết bị, vật liệu, nguồn lực trong nước nhằm hạn chế và thay thế hàng nhập khẩu.
C. Tình hình cho vay đối với các ngành hàng chủ lực tại BIDV.
Tổng Dư nợ cho vay đối với các ngành hàng chủ lực tại BIDV thời điểm 31/12/2011 đạt 271,727 tỷ đồng, tăng 11.7% so với năm 2010, trong đó:
- Tỷ trọng dư nợ ngành: Dư nợ nhóm ngành BĐS và cơ sở hạ tầng chiếm 8.3% trên tổng dư nợ, dư nợ ngành xây dựng chiếm 12.8% trên tổng dư nợ, dư nợ nhóm ngành thương mại công nghiệp nặng chiếm 5.6%, chế biến gỗ, lâm sản chiếm 2.3% trên tổng dư nợ. …
- Xu hướng biến động dư nợ ngành trong năm 2011: Tỷ trọng tăng trưởng dư nợ của ngành Xây dựng, Thương mại công nghiệp, chế biến thuỷ sản, sản xuất xi măng có xu hướng tăng lên. Như Xây dựng (tăng 4.885 tỷ đồng), thương mại công nghiệp nhẹ hàng tiêu dùng (2.590 tỷ đồng), Thương mại công nghiệp nặng (4.098 tỷ đồng), Sản xuất xi măng (2.681 tỷ đồng), Chế biến thủy hải sản (1.837 tỷ đồng), sản xuất chế biến gỗ lâm sản (874 tỷ đồng).
- Nợ quá hạn: Tại thời điểm 31/12/2011 có 03 ngành nghề có nợ quá hạn trên 1.000 tỷ đồng: Xây dựng công trình (số quá hạn 1.099 tỷ đồng/34.557 tỷ đồng), Thương mại kinh doanh sắt thép, phôi thép (số quá hạn 1.039 tỷ đồng/8.034 tỷ đồng), sản xuất thép (số quá hạn 1.007 tỷ đồng/6.873 tỷ đồng).
D. Các giải pháp, cơ chế hỗ trợ Doanh nghiệp của BIDV
Với vai trò Ngân hàng thương mại Nhà nước chủ lực, hàng đầu tại Việt Nam, BIDV triển khai nhiều cơ chế chính sách hướng tới việc hỗ trợ các Doanh nghiệp vượt qua bối cảnh kinh tế khó khăn, đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh.
1) Trong năm 2011 và những tháng đầu năm 2012, BIDV đã chủ động tích cực triển khai các biện pháp, cơ chế để hỗ trợ các Doanh nghiệp, đặc biệt các Doanh nghiệp có hàng tồn kho lớn, gặp khó khăn do khủng hoảng, như: thực hiện cơ cấu nợ, giảm lãi suất vay vốn, giảm phí dịch vụ nhằm hỗ trợ các Doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn, khôi phục sản xuất;
2) Đặc biệt, thực hiện chỉ đạo tại văn bản số 2056/NHNN-CSTT ngày 10/04/2012 của NHNN Việt Nam, BIDV đã:
- Từ ngày 12/04/2012, BIDV mạnh dạn cho vay đối với lĩnh vực bất động sản, điều chỉnh lãi suất cho vay bất động sản là 16%/năm và chỉ tập trung cho vay đối với những dự án sắp hoàn thành.
- Triển khai ngay các biện pháp ứng xử mạnh mẽ đối với các khách hàng đang quan hệ tín dụng tại BIDV gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp; Cơ cấu tài chính cho khách hàng; Miễn giảm lãi; Ưu đãi về lãi suất, phí cho vay; Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp; Mua, bán nợ, gán nợ.
3) Các giải pháp khác:
- Đối với các ngành nghề nói chung: BIDV đã tổ chức chương trình tài trợ xuất khẩu theo ngành nghề, được triển khai từ ngày 29/11/2011 với trị giá 5.000 tỷ đồng. Với chương trình này, doanh nghiệp kinh doanh thương mại hay sản xuất chế biến xuất khẩu trong lĩnh vực thủy sản, dệt may, da giầy, gỗ, cà phê và các nông sản khác được BIDV tài trợ vốn ngay từ khâu thu mua, dự trữ nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu, đến khâu thực hiện hợp đồng/đơn hàng xuất khẩu và chiết khấu hối phiếu đòi nợ sau khi giao hàng, dưới nhiều hình thức thanh toán đa dạng TTR, CAD, L/C, D/P, D/A... kèm các điều kiện linh hoạt về tài sản đảm bảo, lãi suất ưu đãi thấp hơn 0,5% một năm so với lãi suất ưu đãi cho vay xuất khẩu hiện hành cho các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng khác, miễn, giảm phí các dịch vụ tài chính ngân hàng…
- Đối với ngành gạo: Ngay sau khi có Quyết định của Thủ tướng và chỉ đạo của Thống đốc về việc mua thóc gạo tạm trữ vụ Đông Xuân 2011-2-12, BIDV đã chỉ đạo quyết liệt thông qua việc thành lập Ban chỉ đạo chương trình cho vay tạm trữ thóc gạo, chỉ đạo các đơn vị thành viên triển khai cho vay với lãi suất tối đa 14% và ưu tiên dành nguồn vốn đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp trong việc tạm trữ thóc, gạo nhằm bình ổn giá theo định hướng của Chính phủ.
Mặc dù thời gian hỗ trợ lãi suất theo Chương trình thu mua tạm trữ đối với các DN chỉ đến 30/6/2012, tuy nhiên, BIDV đã thực hiện cho vay các DN đến 6 tháng để hỗ trợ cho các DN tạm trữ.
- Đối với ngành dệt may: BIDV đã xây dựng gói sản phẩm tài trợ ngành dệt may cụ thể, cho vay vốn trung, dài hạn để đầu tư mới, đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng nhà xưởng, máy móc, thiết bị; cho vay bổ sung vốn lưu động để thu mua, dự trữ nguyên/phụ liệu; chi phí sản xuất trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi phí quản lý doanh nghiệp để sản xuất hàng dệt may; chiết khấu hối phiếu đòi nợ kèm bộ chứng từ hàng xuất khẩu; cung cấp dịch vụ tiền gửi, bảo lãnh, thanh toán, bảo hiểm, mua - bán ngoại tệ, phái sinh tiền tệ và các dịch vụ khác cho khách hàng trên nguyên tắc trọn gói, khép kín, phù hợp nhu cầu của khách hàng, tuân thủ quy định của pháp luật và của BIDV.
- BIDV đang nghiên cứu và sớm triển khai trong tháng 5/2012 phương thức liên kết 4 nhà hỗ trợ cung cấp tín dụng, thanh toán giữa Ngân hàng – Chủ đầu tư – Nhà thầu - Nhà cung cấp vật liệu. Theo đó, BIDV đứng ra làm đầu mối trung gian kết nối 04 nhà với giá bán hợp lý, góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công trình xây dựng/dự án bất động sản dở dang, thúc đẩy luân chuyển vốn, giảm bớt hàng tồn kho trong nền kinh tế và công nợ giữa Ngân hàng - Chủ đầu tư - Nhà thầu - Nhà cung cấp VLXD.
- Đồng thời, BIDV đã công bố gói tín dụng 4.000 tỷ đồng để đẩy mạnh dư nợ bán lẻ, tập trung hỗ trợ đầu ra cho các dự án BĐS do BIDV tài trợ với lãi suất 16%/năm, thời gian vay có thể đến 15 năm, mức cho vay lên tới 85% giá trị căn nhà; phối hợp với chủ đầu tư để cung cấp các sản phẩm hỗ trợ cho vay, hỗ trợ lãi suất để thu hút nhà đầu tư bán lẻ có nhu cầu mua bất động sản.
E. Những đề xuất, kiến nghị.
1) Đối với Chính phủ:
- Tiếp tục có các biện pháp, giải pháp điều hành chính sách tiền tệ theo hướng: tiếp tục giảm lãi suất tín dụng , bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp ...
- Nghiên cứu gói cứu trợ cho từng nhóm ngành hàng cụ thể, đặc biệt là ngành có ảnh hưởng lớn tới xã hội, tới nền kinh tế.
- Đối với lĩnh vực BĐS:
+ Chính phủ xem xét tiếp tục có chính sách phù hợp hỗ trợ các ngân hàng cho vay đối với lĩnh đang có tồn kho lớn, tạo điều kiện khách hàng vay được vốn lãi suất thấp, thời gian hợp lý.
+ Chính phủ xem xét Đề án thành lập Quỹ tiết kiệm nhà ở sớm được triển khai để hỗ trợ cho người lao động có điều kiện mua nhà. Đồng thời nghiên cứu thí điểm mô hình Quỹ đầu tư tín thác bất động sản để tạo thêm nguồn cung cấp vốn ngoài các tổ chức tín dụng cho thị trường bất động sản.
- Đối với ngành gạo: Chính phủ cần có chương trình hỗ trợ cho vay các doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi để xây dựng hệ thống kho chứa đảm bảo phù hợp với năng lực doanh nghiệp.
- Đối với ngành cao su:Chính phủ xem xét hoãn việc áp dụng thuế xuất khẩu cao su (3%) trong năm 2012 khi giá cao su vẫn ở mức thấp.
2) Đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Tiếp tục có các giải pháp đồng bộ trong tái cơ cấu hoạt động, tiếp tục hỗ trợ cải thiện thanh khoản của các Ngân hàng thương mại nhằm tạo đà tiếp tục giảm trần lãi suất huy động tiến tới bỏ trần lãi suất huy động, để các TCTD có điều kiện giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp.
- Thực hiện điều chỉnh giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD hoạt động an toàn, lành mạnh.
- Đề nghị NHNN nghiên cứu và xem xét lại quy định về tỷ lệ dư nợ đối lĩnh vực không khuyến khích: Việc giới hạn tỷ lệ tín dụng phi sản xuất 16%. NHNN cần nghiên cứu và phân khúc thị trường để xác định chính xác phân khúc cần kiểm soát chặt (Đối với phân khúc thị trường nhà ở dành cho người có thu nhập thấp, trung bình; phân khúc các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng,..: Đây là phân khúc thiết yếu, phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế).
- Đối với ngành thuỷ sản: Nghiên cứu chính sách linh động phù hợp với đặc thù của ngành thủy sản như cho vay ngắn hạn theo đơn hàng tùy theo mức độ và thời gian thanh toán của thị trường để giúp doanh nghiệp không phải chấp nhận bán giá thấp để xoay vòng vốn, đáo hạn ngân hàng.
3) Đối với Bộ Công thương:
- Phối hợp với các hiệp hội ngành hàng để đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp như tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường và định hướng cho doanh nghiệp cũng như cảnh báo khó khăn tại từng thị trường sẽ được thực hiện đồng bộ, qua đó giúp doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng và đưa hàng đến thị trường nào thuận lợi nhất.
4) Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Cục quản lý chất lượng nông, lâm sản và thuỷ sản:
- Ngành thuỷ sản: Cho phép bãi bỏ quy định kiểm tra, kiểm nghiệm lô hàng và cấp chứng thư xuất khẩu thủy sản vào Nhật Bản và Canada. Với tình hình quá khó khăn về vốn hiện nay, việc bãi bỏ thủ tục này sẽ giúp doanh nghiệp quay nhanh đồng vốn, tránh tồn kho khi lãi suất cao, giảm chi phí để có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thủy sản thế giới.
Xem xét không áp dụng việc lấy mẫu kiểm nghiệm bắt buộc lô hàng làm điều kiện để cấp chứng thư xuất khẩu. Trường hợp nước nhập khẩu không yêu cầu thì không bắt buộc các doanh nghiệp phải có chứng thư của Nhà nước.
Thay đổi cách kiểm soát kháng sinh và các yếu tố rủi ro an toàn thực phẩm theo hướng kiểm soát đầu nguồn thay vì kiểm tra lô hàng như hiện nay.
- Ngành gạo: Cần có định hướng về quy hoạch vùng nguyên liệu nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
5) Đối với Bộ Tài chính:
- Ngành bất động sản: Nghiên cứu và để xuất Chính phủ xem xét giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% hiện nay xuống còn 18 - 20% và cho giãn tiến độ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 đến hết 31/12/2013.
+ Phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan xem xét, điều chỉnh sửa đổi Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009, Nghị định 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 về việc thu tiền sử dụng đất các dự án bất động sản.
+ Cho phép doanh nghiệp bất động sản được phân bổ hạch toán chi phí quảng bá, marketing trong thời gian thực hiện dự án hoặc trong thời hạn tối đa khoảng 5 năm kể từ ngày dự án đủ điều kiện huy động vốn (Hiện nay chi phí này phải hạch toán ngay trong năm tài chính trong lúc công tác quảng bá marketing thực hiện cho toàn bộ dự án, suốt vòng đời dự án).
- Ngành cao su:Đề nghị có biện pháp tách biệt bao bì nhựa bao gói các mặt hàng cao su xuất khẩu để không thu thuế bảo vệ môi trường trên loại bao bì nhựa này.
6) Bộ Kế hoạch đầu tư:
- Ngành cao su: Phối hợp với Bộ Nông nghiệp- Phát triển nông thôn trong việc xem xét cấp giấy phép cho các nhà máy chế biến cao su để cân đối giữa năng lực vùng nguyên liệu và công suất các nhà máy giữa các tỉnh.
7) Đối với Bộ xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải:
Đẩy mạnh việc thực hiện hợp tác giữa hai Bộ về đẩy nhanh chương trình làm đường bằng bê tông và đẩy mạnh các chương trình nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội
8) Đối với Doanh nghiệp:
Trước bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô còn nhiều bất ổn, tốc độ lạm phát tuy đã giảm nhưng nguy cơ tiềm ẩn tăng vẫn ở mức cao, dự báo tình hình kinh tế-xã hội 6 tháng cuối năm vẫn còn nhiều khó khăn, BIDV đề nghị các Doanh nghiệp chủ động lường trước khó khăn, xây dựng các biện pháp chống đỡ hiệu quả, phối hợp với BIDV, các TCTD để triển khai các biện pháp như:
- Tiếp tục thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp, tập trung vào các yếu tố nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cấp khả năng quản trị thông minh, trong đó có quản trị nhân sự và quản trị rủi ro của doanh nghiệp.
- Đa dạng hóa các nguồn vốn để không bị quá phụ thuộc vào nguồn vốn của Ngân hàng, xây dựng kế hoạch đầu tư tốt cho năm 2012, chiến lược kinh doanh, cơ cấu lại danh mục sản phẩm để đảm bảo duy trì được thị trường chính, khách hàng lâu dài đảm bảo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đạt ở mức cao.
- Đối với các doanh nghiệp trong ngành chế biến thực phẩm, đề nghị Doanh nghiệp thực hiện tổ chức lại sản xuất theo mô hình liên kết dọc, trong đó lấy hộ chăn nuôi, nuôi trồng làm trung tâm, doanh nghiệp chế biến có vai trò đầu tàu của mối liên kết hoặc tổ chức các nhóm liên kết ngang của những người sản xuất và chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổ hợp tác, nhóm hợp tác, hợp tác xã, câu lạc bộ, tập đoàn sản xuất.
- Tăng cường tham gia các hiệp hội doanh nghiệp, chung sức xây dựng các hiệp hội để có thể sớm trở thành trung tâm kết nối, hợp sức các doanh nghiệp cùng nhau phát triển. Các hiệp hội nghề nghiệp chính là những tổ chức quan trọng trong việc phát triển các liên kết kinh doanh ở tầm vĩ mô cũng như trong các chuỗi cung ứng các sản phẩm, dịch vụ cụ thể.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
Ban Thương hiệu và Quan hệ công chúng, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Điện thoại: 04. 22205256; Fax: 04. 22225316.
© Bản quyền 2018 thuộc về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
Tháp BIDV, 194 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội
SĐT tiếp nhận: 19009247 (Cá nhân)/ 19009248 (Doanh nghiệp)/(+84-24) 22200588 - Fax: (+84-24) 22200399
SĐT gọi ra: 024 22200588/ 0822808588/ 0842152355/ 0763238588/ 0764263180/ 0784132388/ 0764860580/ 0357638588/ 0942551080/ 0334282388/ 0947591080/ 0865903266/ 0867003966/ 0865953266/ 0865960266
Email: bidv247@bidv.com.vn
Swift code: BIDVVNVX
Trang chủ
Cá nhân
Cá nhân cao cấp
Tuyển dụng