Web Content Viewer
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Khả năng bình ổn
Năm 2008 đã chứng kiến những biến động đảo chiều mạnh mẽ của tỷ giá USD/VND. Nếu trong quý I, USD liên tục giảm giá so với VND thì từ đầu quý II, tỷ giá USD/VND có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại và tăng mạnh liên tục từ cuối tháng 5 và đạt đỉnh điểm tại thời điểm giữa tháng 6. Sau khi Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các biện pháp can thiệp đồng bộ và quyết liệt vào thị trường ngoại hối, tỷ giá đã sụt giảm và bình ổn trở lại trước khi lại dậy sóng trong đợt tháng 10 và tháng 11. Nguyên nhân chính dẫn tới những diễn biến phức tạp của tỷ giá trong năm 2008 chính là: sự tham gia của các dòng tiền “nóng” của đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), và đặc biệt là tâm lý đầu cơ găm giữ ngoại tệ trong doanh nghiệp và dân cư. Dòng tiền FII đổ vào Việt nam trong quý I đã khiến cung ngoại tệ dư thừa góp phần đẩy tỷ giá USD/VND liên tục giảm. Trong khi đó chính sự tháo lui của dòng tiền này khỏi Việt nam trong thời điểm tháng 5, tháng 6 và tháng 10, tháng 11 lại là nguyên nhân tạo sức ép lên tình trạng căng thẳng nguồn ngoại tệ, đẩy tỷ giá tăng cao đột biến. Cùng với dòng vốn FII, tâm lý đầu cơ là nguyên nhân xuyên suốt trong những biến động tỷ giá năm 2008. Đầu năm tâm lý dự đoán tỷ giá USD/VND sẽ giảm khiến doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ chuyển đổi ra VND phục vụ sản xuất kinh doanh, và doanh nghiệp nhập khẩu chủ yếu vay ngoại tệ thanh toán hàng nhập thay vì mua ngoại tệ càng làm thị trường ngoại hối dư thừa ngoại tệ. Chính tâm lý đầu cơ găm giữ ngoại tệ chờ tỷ giá tăng tại thời điểm tháng 5, tháng 6 lại làm các doanh nghiệp tăng nhu cầu mua ngoại tệ thanh toán các khoản nợ vay trước hạn và chuẩn bị nguồn ngoại tệ thanh toán LC sắp đến hạn đã khiến nguồn ngoại tệ ngày càng thiếu hụt.
Sang đến năm 2009, tỷ giá USD/VND lại tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm đặc biệt sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5%. Trong bối cảnh nguồn ngoại tệ ròng vào Việt nam là dương trong 4 tháng đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến tỷ giá USD/VND tăng mạnh lại chính là do yếu tố đầu cơ găm giữ ngoại tệ hơn là các yếu tố về luồng ngoại tệ ra vào nền kinh tế. Thực vậy, cán cân thương mại thăng dư liên tục trong 3 tháng đầu năm và tổng giá trị thặng dư trong 4 tháng đạt 800 triệu USD, dòng vốn FII là tương đối cân bằng khi giá trị bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trên thị trường trái phiếu là khoảng 300 triệu USD trong quý I đã được bù đắp bởi FII ròng vào thị trường chứng khoán trong tháng 4 và tháng 5 là khoảng 130 triệu USD. Tuy nhiên, lượng ngoại tệ vào Việt nam không được cung ứng ra thị trường đáp ứng các nhu cầu thanh toán ngoại tệ như thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh toán trả nợ vay đến hạn mà tập trung trên tài khoản tiền gửi chờ tỷ giá lên, doanh nghiệp chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ trả nợ vay trước hạn đặc biệt khi chương trình hỗ trợ lãi suất góp phần thu hẹp chênh lệch lãi suất VND và lãi suất USD, người dân chuyển từ tiền gửi VND sang tiền gửi ngoại tệ. Thể hiện, số dư tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng tại thời điểm cuối tháng 4/2009 tăng khoảng 4,52% so với cuối năm 2009, trong khi đó số dư tiền vay ngoại tệ giảm 1,6% tương ứng.
Liệu tình hình thị trường ngoại hối có thể được bình ổn và tỷ giá USD/VND có thể ổn định trong năm 2009? Xét trên những cân đối lớn của nền kinh tế như cán cân thương mại, cán cân thanh toán, có thể khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có đủ nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, và có thể kiểm soát và ổn định thị trường ngoại hối.
Thâm hụt thương mại của Việt nam trong năm 2009 dự kiến giảm 60% so với năm 2008 và ở mức khoảng 6,9 tỷ USD với kim ngạch xuất khẩu giảm khoảng 10% so với năm 2008 và đạt 56 tỷ USD nếu không tính xuất khẩu vàng và 58,2 tỷ USD nếu tính xuất khẩu vàng, kim ngạch nhập khẩu giảm khoảng 19% so với năm 2008 và đạt 65,1 tỷ USD
Về xuất khẩu, trong 4 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 18,29 tỷ USD nếu không tính đến xuất khẩu vàng đạt 16,09 tỷ USD giảm 13,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi khối lượng xuất khẩu của các mặt hàng chính vẫn đà tăng trưởng (dầu thô tăng 20,2%, cà phê tăng 18,8%, gạo tăng 49,9%), nguyên nhân chính khiến kim ngạch xuất khẩu giảm chính là do giá cả hàng hoá giảm mạnh với giá dầu thô giảm 57%, giá cà phê giảm 24%, giá gạo giảm 33%. Trong điều kiện khả năng kinh tế thế giới chỉ có thể phục hồi từ năm 2010 đặc biệt là các nước nhập khẩu chính của Việt nam (Mỹ, Nhật, Châu Âu) dù đã qua giai đoạn xấu nhất của khủng hoảng; giá cả hàng hoá có thể tăng từ quý II tuy nhiên mặt bằng giá hàng hoá năm 2009 sẽ thấp hơn nhiều so với năm 2008; khả năng duy trì xuất khẩu vàng trong năm 2009 là thấp; tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam chủ yếu là các mặt hàng thiết yếu do vậy ít chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, kim ngạch xuất khẩu dự kiến của Việt nam giảm 10% so với năm 2008.
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu trong 4 tháng đầu năm đạt 17,83 tỷ USD giảm 41% so với cùng kỳ năm ngoái do cả lượng và giá nhập khẩu đều giảm khá mạnh, đặc biệt là ở các mặt hàng nhập khẩu chính chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị nhập khẩu: sắt thép (66,9%), ô tô nguyên chiếc (53,9%), xăng dầu (57,3%) và máy móc thiết bị (27,3%). Trong thời gian tới, gói giải pháp kích cầu của Chính phủ, đặc biệt là gói hỗ trợ lãi suất không chỉ giới hạn ở phần cho vay vốn lưu động mà được mở rộng đối với các khoản vay trung dài hạn sẽ phát huy tác dụng từ quý II, nguồn vốn thực sự được đưa vào sản xuất, do vậy kích thích nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng máy móc, thiết bị, sắt thép. Bên cạnh đó, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nguyên phụ liệu dệt may, giày dép sẽ tăng mạnh từ cuối quý II do yếu tố mùa vụ. Tuy nhiên, nhu cầu xăng dầu nội địa được cung ứng một phần từ nhà máy lọc dầu Dung quất, đồng thời giá thành hàng hoá vẫn thấp hơn so với năm 2008 nên dự kiến kim ngạch nhập khẩu sẽ giảm khoảng 19% so với năm 2008.
Giá trị giải ngân dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 5 tỷ USD và dòng tiền đầu tư gián tiếp nước ngoài ròng vào Việt nam dự kiến là cân bằng.
FDI đăng ký trong quý I/2009 là 6 tỷ USD cùng với phần còn lại của năm 2008 khoảng trên 50 tỷ USD, trong đó có 27 tỷ USD tập trung vào lĩnh vực dịch vụ như khách sạn, du lịch, văn phòng, nhà ở. Việc các nước đầu tư chủ yếu vào Việt nam chịu ảnh hưỏng của suy thoái kinh tế đặc biệt là Đài Loan sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng giải ngân. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu suy thoái, Việt nam vẫn là nước có tốc độ tăng trưởng dự kiến cao so với thế giới và các nước trong khu vực, cộng với tình hình chính trị ổn định nên vẫn là điểm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế thế giới và khủng hoảng tài chính được đánh giá đã trải qua thời điểm tồi tệ nhất, mức độ lo ngại rủi ro của các nhà đầu tư đã được cải thiện, khả năng thanh khoản đã quay trở lại sau hàng loạt các giải pháp hỗ trợ của các Chính phủ, xu thế đầu tư vào các tài sản có độ thanh khoản cao giảm sút, dự kiến quỹ đầu tư có lượng tiền thật (real money fund) sẽ đầu tư vào thị trường Châu Á mới nổi khi thị trường này có dấu hiệu phục hồi dự kiến vào đầu quý III. Hơn nữa, lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tại thị trường Việt Nam ước tính chỉ còn khoảng 2,5 tỷ USD còn nhỏ so với con số 20 tỷ USD năm 2007. Do vậy, khả năng về hoạt động rút vốn dồn dập của các nhà đầu tư nước ngoài trong năm nay để tạo ra sức ép lên tỷ giá là khó xẩy ra.
Nguồn vốn giải ngân ODA dự kiến đạt mức 1 tỷ USD, kiều hối giảm xuống mức 3 tỷ USD do khó khăn của nền kinh tế toàn cầu có thể bù đắp được các khoản trả nợ vay nước ngoài đến hạn khoảng 1,5 tỷ USD.
Như vậy, xét trên tổng thể cán cân lớn của nền kinh tế thì năm 2009 tốt hơn rất nhiều so với năm 2008 với mức thâm hụt cán cân thanh toán chỉ ở mức khoảng 1 tỷ USD, những vấn đề của năm 2008 như tình hình hình kinh tế vĩ mô, lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, sự rút vốn của dòng tiền “nóng” sẽ không còn là mối lo ngại lớn trong năm 2009, ngoại trừ tâm lý đầu cơ găm giữ ngoại tệ dẫn tới hiện tượng đô la hoá trên thị trường Việt nam. Đặc biệt, nếu như trong năm 2008 thì biến động tỷ giá USDVND tương đối bất ngờ đối với các thành viên thị trường và cả các nhà quản lý thì trong năm 2009, vấn đề về tỷ giá USD/VND và tính thanh khoản của thị trường ngoại hối được coi là vấn đề trọng tâm hàng đầu trong công tác điều hành của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ. Chúng tôi tin rằng, khả năng cân đối ngoại tệ của nền kinh tế là hoàn toàn khả thi, các biến động bất thường về dòng ngoại tệ ra – vào nền kinh tế là có thể ước đoán được. Do vậy, với lượng dự trữ ngoại hối quốc gia là 20 tỷ USD như hiện nay thì khả năng bình ổn thị trường ngoại hối là hoàn toàn hiện thực với mức mất giá tối đa của VND trong năm 2009 không vượt quá 5-6% như trong cuộc trả lời phỏng vấn gần đây của Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình. Tuy nhiên, để thị trường thực sự bình ổn, NHNN cần sớm triển khai dứt khoát và đồng bộ 3 nhóm giải pháp dự kiến về đảm bảo chênh lệch hợp lý giữa lãi suất USD và lãi suất VND, các giải pháp chấn chỉnh thị trường, và đặc biệt là tạo được niềm tin cho tổ chức, cá nhân. Có như vậy, mới tránh được tình trạng găm giữ ngoại tệ, “bình ngưng” ngoại tệ tại tài khoản tiền gửi trong hệ thống ngân hàng được giải quyết, luồng ngoại tệ ra vào nền kinh tế được thực sự lưu thông phản ánh đúng nhu cầu thực sự của nền kinh tế.
© Bản quyền 2018 thuộc về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
Tháp BIDV, 194 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội
SĐT tiếp nhận: 19009247 (Cá nhân)/ 19009248 (Doanh nghiệp)/(+84-24) 22200588 - Fax: (+84-24) 22200399
SĐT gọi ra: 02422200588 - 0763238588 - 0784132388 - 0842152355 - 0822808588 - 0764263180 - 0764860580 - 0947591080 - 0398079599 - 0398127288 - 0382512188 - 0357823588
Email: bidv247@bidv.com.vn
Swift code: BIDVVNVX
Trang chủ
Cá nhân
Cá nhân cao cấp
Tuyển dụng