Web Content Viewer
Phát biểu của Chủ tịch HĐQT BIDV Trần Bắc Hà tại Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII xác định “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, đồng thời khẳng định, yêu cầu “Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Điều đó cho thấy sự nhìn nhận, đánh giá cao của Đảng và Nhà nước đối với các DN, cũng như niềm tin và sự kỳ vọng đối với vai trò của các Doanh nghiệp Việt Nam thực sự là “Động lực phát triển kinh tế đất nước” trong giai đoạn 2016-2020 tới đây. Mục tiêu cụ thể đặt ra là phấn đấu tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm; GDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 3.200-3.500 USD.
Bối cảnh kinh tế 4 tháng đầu năm 2016 cho thấy chúng ta còn nhiều khó khăn, thách thức, GDP có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, Quý 1 chỉ tăng 5,46% (so với 6% năm 2015); chỉ số SXCN 4 tháng tăng 7,3% (so với mức 9,4% cùng kỳ năm trước); 6 tháng đầu năm GDP dự báo tăng khoảng 5,7-5,8%, chỉ số SXCN dự báo tăng khoảng 7,5%, CPI sẽ ở mức 2,5-3%. Theo đó, để đạt mức tăng trưởng 6,7% năm 2016, GDP quý 3 và 4 phải đạt mức tăng trưởng 7,2-7,4%; SXCN phải tăng khoảng 9%; và CPI có thể tăng vượt mức 3% (khoảng 3,5-4%). Đạt được mức tăng này không phải dễ dàng.
Trên tinh thần đó, bài phát biểu của tôi tập trung vào 2 nội dung chính: (1) Hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng, thúc đẩy doanh nghiệp trở thành động lực phát triển kinh tế; và (2) Đề xuất một số giải pháp hỗ trợ và đồng hành cùng các doanh nghiệp.
Thưa các đồng chí.
Về hoàn thiện thể chế, thúc đẩy DN trở thành động lực phát triển kinh tế đất nước, với chủ trương ĐH Đảng lần thứ XII nêu trên, 4 yêu cầu đặt ra là:
Thứ nhất, Cần tập trung xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách để hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động của các doanh nghiệp. Cụ thể, các cơ chế cần được thể chế hóa bằng Luật, nhưng cần đảm bảo phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế cũng như các FTA Việt Nam đã ký kết; để đến năm 2018 Việt Nam chính thức được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Đồng thời, Nhà nước cần quan tâm ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ trực tiếp, hiệu quả cho doanh nghiệp, nhất là về nhân lực/lao động, tài chính, Khoa học Công nghệ, thương mại, khởi nghiệp... Theo đó cần:
- Rà soát lại tất cả các Luật kinh tế có liên quan tới người dân và DN, đặc biệt là Luật Đầu tư và Luật DN, khẩn trương ban hành, hướng dẫn triển khai thực hiện để đi vào cuộc sống kịp thời, không để khoảng trống pháp lý.
- Cần rà soát, cải cách lại hệ thống văn bản Luật, theo hướng dưới Luật chỉ có 1 Nghị định hướng dẫn chi tiết, toàn diện cho Luật, tinh giảm tối đa các thông tư, văn bản hướng dẫn dẫn đến chồng chéo, không thống nhất, phát sinh thủ tục, giấy phép con, kéo dài thời gian. Định kỳ tổ chức đối thoại với người dân, với doanh nghiệp để thường xuyên để đánh giá, kịp thời sửa đổi các bất cập để cơ chế chính sách thực sự đi vào đời sống.
- Phải xây dựng cơ chế giám sát và chế tài xử lý mạnh mẽ đối với những cán bộ thực thi công quyền không hoàn thành nhiệm vụ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp; tăng cường giám sát trực tiếp của người dân, doanh nghiệp, báo chí.
- Một vấn đề đáng lưu ý nữa là Luật phá sản của chúng ta chưa phát huy hiệu quả, chưa đi vào đời sống, trong hơn 10 năm từ 2004 đến nay chỉ có 49/63 Tòa án nhân dân Tỉnh nhận đơn và giải quyết đơn phá sản và chỉ giải quyết có 336 đơn phá sản trong hơn 10 năm, có lẽ chúng ta là nước hiện có nhiều DN xác sống (Zombie) nhất. Đề nghị CP chỉ đạo đẩy mạnh áp dụng Luật Phá sản, để nhanh chóng xử lý, loại bỏ các trì trệ, yếu kém, đổ vỡ, để tái phục hồi các nguồn lực để đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai,phải đẩy mạnh việc minh bạch, công khai, thực hiện niêm yết công khai các quy định, chính sách, thiết lập các cổng thông tin điện tử, đẩy mạnh thực hiện các thủ tục hành chính điện tử. Quy định cụ thể thời gian tối đa đối với các thủ tục hành chính và trách nhiệm trực tiếp của người thực thi, có chế tài cụ thể xử phạt hành chính bằng tiền, thi hành kỷ luật đối với các hành vi sách nhiễu, hạch sách, tự đưa ra các quy định. Đối với những tố cáo, khiếu nại chính đáng của người dân, doanh nghiệp, người đứng đầuu đơn vị phải trực tiếp xử lý một cách khách quan, trung thực và công khai.
Thứ ba, từng bước hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế tư nhân của quốc gia. Trên cơ sở chủ trương đã được khẳng định tại Báo cáo chính trị trình ĐH Đảng XII cũng như kinh nghiệm phát triển các tập đoàn kinh tế lớn của các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; Chính phủ cần xây dựng chiến lược cụ thể trong khuyến khích phát triển, hình thành các tập đoàn kinh tế lớn của quốc gia, cụ thể là: (i) Xác định mục tiêu trong 5 năm tới, Việt Nam có 5-10 tập đoàn kinh tế nằm trong top-300 DN lớn nhất châu Á; (ii) Ưu tiên lựa chọn những DN thuộc những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân để phát triển thành các TĐKT; (iii) Phân định rõ chức năng đại diện chủ sở hữu và quản lý; tập đoàn không phải là một cơ quan quản lý nhà nước mà là một tổ chức kinh tế; (iv) Có chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển các tập đoàn kinh tế cũng như có cơ chế giám sát, kiểm tra, đảm bảo tính công khai, minh bạch, quản trị doanh nghiệp theo thông lệ trong hoạt động của các TĐKT.
Thứ tư, cần đổi mới trong tư duy hợp tác kinh doanh phát triển.Các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy từ “Thắng – Thua” sang “Hai bên cùng thắng” (Win – Win” trên quan điểm vừa hợp tác vừa cạnh tranh, tăng cường liên kết – kết nối, không phân biệt quốc tịch, tôn giáo, văn hóa ... mở rộng quan hệ hợp tác, chia sẻ thông tin thị trường những vẫn đảm bảo tính cạnh tranh.
Thưa các đồng chí.
Để thực hiện các mục tiêu, yêu cầu đó, BIDV xin đề xuất 5 nhóm giải pháp cụ thể và cam kết đồng hành, hỗ trợ đối với các Doanh nghiệp như sau:
1. Nhóm giải pháp tăng cường cung ứng vốn, đầu tư cho sản xuất kinh doanh nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng GDP:
Đến hết năm 2015, nguồn vốn tín dụng ngân hàng đạt 4.667 nghìn tỷ đồng tương đương với 100% GDP (so với mức bình quân ASEAN khoảng 70%GDP). Đồng thời, trong 1.367,2 nghìn tỷ tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2015, ước tính đến 48% là từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Theo đó, dòng vốn tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán, để GDP tăng trưởng ở mức 6,5-7% như mục tiêu (năm 2016 là 6,7%) thì nguồn vốn tín dụng cần tăng ở mức 16-18%. Để đạt mục tiêu này, cần có những biện pháp bổ sung để tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển. Theo đó, ba nhóm giải pháp chính gồm:
- Một là, tiếp tục xem xét giải pháp gia tăng vốn đầu tư và giảm lãi suất cho vay thêm 0,5% - 1%.
Hiện nay lãi suất cho vay tại VN đang ở mức 7-11%/năm (bình quân 8,5%/năm) là mức lãi suất tốt nhất trong nhiều năm qua (thấp hơn cả mức 2006-2007 (8-12%/năm)); trong khi giá vốn đang ở mức khoảng 7,8% (gồm LS huy động khoảng 4,9%, DPRR 1,22%, DP thanh khoản 0,5%, chi phí quản lý 1,75%), theo đó mức chênh lệch ròng của các NHTM hiện rất thấp chỉ khoảng 0,7%, so với các nước trong khu vực chênh lệch ròng ở mức 2,2% - 2,5%. Lãi suất cho vay bình quân 8,5%/năm của Việt Nam hiện nay chỉ thấp hơn Ấn Độ (10%), và cao hơn các nước trong khư vực Asean (đang ở mức khoảng 6-7%/năm), do đó bất lợi cho DNVN khi tham gia AEC. Hiện nay nhiều người đánh giá việc giảm tiếp lãi suất cho vay là khó, tuy nhiên, theo tôi là có thể làm được và mức giảm có thể là 0,5-1%, nếu chúng ta thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
+ Thứ nhất, NHNN xem xét điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ mức hiện nay là 3% (kỳ hạn dưới 1 năm), 1% (kỳ hạn từ 1 năm trở lên) với VND và 8% (kỳ hạn dưới 1 năm), 6% (kỳ hạn từ 1 năm trở lên) với ngoại tệ về cùng 1 mức là 1%, riêng tỷ lệ với ngoại tệ kỳ hạn ngắn có thể xem xét ở mức 3%. Đồng thời điều chỉnh giảm tỷ lệ dữ trữ thanh khoản (theo Thông tư 36) từ mức ≤ 10% về mức ≤ 8%. Khi đó so với hiện tại, ước tính có thể giải phóng thêm ngồn vốn tín dụng cho nền kinh tế khoảng 100.000 tỷ đồng.
+Thứ hai,giảm lượng phát hành trái phiếu chính phủ. Các TCTD nắm giữ tới 85% TPCP, riêng 4 tháng đầu năm 2016 CP đã phát hành thành công 102 nghìn tỷ, trong đó các TCTD nắm giữ đến 97 nghìn tỷ, theo kế hoạch năm 2016, KBNN có kế hoạch phát hành tổng cộng 220 nghìn tỷ đồng, như vậy với tỷ lệ tham gia 85% như trên, vốn các TCTD đầu tư TPCP khoảng 187 nghìn tỷ đồng – đây là vốn trung dài hạn cần thiết để phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế. Vì vậy, để giảm sức ép lên lãi suất và cạnh tranh nguồn vốn trung-dài hạn, Chính phủ xem xét giảm kế hoạch phát hành TPCP ở mức khoảng 10%. Nguồn bù đắp cho phần thiếu hụt sẽ lấy từ nguồn siết chặt đầu tư công và khoản chi thường xuyên của ngân sách yêu cầu của TTgCP. Đồng thời, tăng cường phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ.
+ Thứ ba, Chính phủ và NHNN đẩy nhanh cơ chế, thủ tục tái cấp vốn/cấp bù lãi suất nhằm tăng hiệu quả quay vòng vốn, đồng thời đẩy nhanh xử lý nợ xấu giúp các ngân hàng có thêm vốn để phục vụ doanh nghiệp. Theo Thông tư 18 của NHNN, các NHTM được tái cấp vốn tối đa 70% cho trái phiếu đặc biệt mua nợ của VAMC, tuy nhiên thực tế các NHTM được tái cấp vốn rất ít và hạn chế.
+ Thứ tư, về phía các TCTD cũng cần thực hiện tiết giảm chi phí quản lý hoạt động. Theo đó, đề xuất các NHTM mà đi đầu là các NHTM nhà nước cần có hành động cụ thể để tiết giảm khoảng 10% chi phí quản lý hoạt động trong năm 2016.
+ Thứ năm,đẩy nhanh tái cơ cấu các TCTD yếu kém còn lại nhằm hạn chế cạnh tranh lãi suất huy động vốn không lành mạnh (khiến mặt bằng lãi suất cho vay chịu áp lực tăng).
+ Thứ sáu, Dự thảo sửa đổi Thông tư 36 quy định tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay TDH là 40% cần lộ trình triển khai, đề nghị sau 12 tháng thì đưa về mức 50%, và sau 24 tháng thì đưa về mức 40% theo Dự thảo Thông tư.
+ Cuối cùng là các NHTM tạo điểu kiện tiếp cận vốn nhưng các DN cần đảm bảo các điều kiện theo quy định về cho vay như Tài sản đảm bảo, Kế hoạch, phương án kinh doanh; Báo cáo tài chính kiểm toán…
Trong khi chờ đợi các chính sách từ Chính phủ, NHNN, BIDV cam kết ngay từ hôm nay(29/4/2016) sẽ thực hiện giảm 0,5% lãi suất đối với các khoảnvay vốn ngắn hạn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, và mức cho vay trung và dài hạn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh tối đa không quá 10%. Như vậy BIDV sẽ giảm doanh thu khoảng 400 – 450 tỷ để chia sẻ, hỗ trợ các Doanh nghiệp.
- Hai là,tiếp tục thực hiện tiết giảm chi tiêu và đa dạng hóa đầu tư công: (i) đẩy mạnh mô hình hợp tác công tư (PPP) đối với các lĩnh vực không hạn chế tư nhân, đồng thời có tính đột phá, lan tỏa như nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghiệp công nghệ, đầu tư kết cấu hạ tầng..; (ii) Nghiên cứu phương án thành lập mô hình Quỹ/Công ty Tài chính phát triển kết cấu hạ tầng như mô hình của một số nước Mỹ, Pháp, Nhật Bản nhằm huy động tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, cung cấp vốn cho các dự án một cách trực tiếp hoặc thông qua các TCTD. Nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng, giao thông giai đoạn 2016 – 2020 khoảng 48 ty USD, trong đó vốn cho PPP & BOT cần khoảng 23 tỷ USD, đề nghị các TCTD Việt Nam tham gia từ 70% – 80%.
- Ba là, phát triển cân bằng, đa dạng thị trường tài chính: Thị trường tài chính Việt Nam như kiềng 3 chân khập khiễng, phụ thuộc quá nhiều vào hệ thống các TCTD, trong khi thị trường chứng khoán và trái phiếu chưa phát triển. Với tổng tài sản hệ thống ngân hàng chiếm tới 76% hệ thống tài chính (so với bình quân ASEAN khoảng 42%), tín dụng ngân hàng bằng 100% GDP (bình quân ASEAN là 70%GDP); trong khi tỷ lệ vốn hóa chứng khoán VN bằng khoảng 34% GDP (bình quân ASEAN 66% GDP), tỷ lệ vốn hóa TT trái phiếu của VN chỉ bằng 22%GDP (bình quân ASEAN là 54%); rõ ràng là cần phát triển mạnh thị trường chứng khoán và trái phiếu, tạo kênh dẫn vốn trung-dài hạn cho nền kinh tế.
2. Nhóm giải pháp xử lý triệt để vấn đề nợ xấu
Theo IMF đánh giá số nợ có vấn đề của Việt Nam hiện nay là hơn 12%, còn theo số liệu trong nước thì tổng nợ có vấn đề cần phải xử lý (gồm nợ xấu nội bảng, nợ ngoại bảng, nợ cơ cấu theo QĐ 780, nợ bán cho VAMC) khoảng 11% dư nợ toàn nền kinh tế. Để giải quyết tình trạng này, BIDV đề xuất:
- Thứ nhất, Chủ trương thành lập thị trường mua bán nợ đã được Thủ tướng CP chỉ đạo từ tháng 2/2013, đến 12/2014 Thủ tướng tiếp tục có TB số 10055/VPCP yêu cầu yêu cầu trình ban hành khuôn khổ pháp lý cho thị trường mua bán nợ và tài sản, tuy nhiên đến nay sau hơn 3 năm NHNN và Bộ Tài chính vẫn chưa trình CP. Đề nghị Cần đẩy nhanh tiến độ ban hành Nghị định về thị trường mua bán nợ và tài sản theo hướng gỡ bỏ tối đa các rào cản, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân có thể tham gia vào thị trường mua bán nợ.
- Thứ hai, cần có cơ chếđặc thù cho VAMC. Cụ thể: (i) có cơ chế riêng khi tiến hành các thủ tục pháp lý khi xử lý tài sản bảo đảm; được hợp thức hóa các tài sản chưa rõ ràng về pháp lý để xử lý/chuyển nhượng, tạo thanh khoản; (ii) Được bán nợ, bán tài sản cho nước ngoài, các đơn vị, cá nhân không có chức năng mua-bán nợ; (iii) Bộ Tài chính nghiên cứu, trình ban hành quy định miễn giảm các loại thuế liên quan đến việc xử lý, phát mại tài sản bảo đảm (ví dụ như thuế thu nhập của cá nhân hoặc doanh nghiệp khi chuyển nhượng tài sản bảo đảm là bất động sản), đặc biệt là các tài sản của các khoản nợ đã bán cho VAMC. Ngoài ra, NHNN cần chỉnh sửa QĐ 618/QĐ-NHNN theo hướng mở rộng đối tượng được mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC, bao gồm cả các AMC của TCTD (cùng với việc sớm ban hành Nghị định thị trường mua-bán nợ); đồng thời cho phép các TCTD cầm cố trái phiếu VAMC để vay vốn từ NHNN.
3. Vấn đề tái cơ cấu và nâng cao năng lực tài chính của các TCTD
Theo tính toán, để tăng trưởng GDP ở mức 6,5-7%/năm thì tăng trưởng tín dụng cần ở mức 16-18% và để đạt mức tăng trưởng tín dụng này thì tăng trưởng vốn tự có của các ngân hàng phải ở mức 19-22%, mới đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR). Điều này không khả thi đối với các NHTM Nhà nước do từ năm 2013 các NHTM do NN nắm cổ phần chi phối không được sử dụng nguồn lợi nhuận sau thuế hàng năm để tăng vốn (3 năm nay BIDV xin phép nhưng chưa được chấp thuận, lợi nhuận sau thuế đều chi cổ tức bằng tiền và chuyển về ngân sách nhà nước);
Để giải quyết vấn đề này, BIDV đề xuất 3 giải pháp:
- Thứ nhất, Chính phủ và các bộ ngành đồng thuận nhất quán trong chính sách cho phép các NHTMNN để lại cổ tức, thặng dư cho chuyển nhượng phần sở hữu của Nhà nước, thặng dư từ các khoản thoái vốn đầu tư làm nguồn tăng vốn cho ngân hàng.
- Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa và giảm bớt tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tại các NHTM sở hữu nhà nước, hiện đang ở mức 65% và trong lộ trình 5 năm tới giảm về mức 51%.
- Thứ ba, riêng với những TCTD gặp khó khăn về tài chính, đề nghị Chính phủ coi đây như khoản đầu tư dưới hình thức là bơm một phần vốn tạm thời từ nguồn lợi nhuận để lại của Nhà nước để đảm bảo các TCTD này đáp ứng yêu cầu về an toàn vốn. Hình thức thực hiện có thể được coi như 1 khoản vay đầu tư của Nhà nước được các TCTD đảm bảo an toàn với lợi tức không thấp hơn lãi suất tiết kiệm hoặc tạm ứng trong khi chờ bán chiến lược.
4. Thí điểm phát hành Trái phiếu Chính phủ hàng hóa
Bộ tài chính triển khai thí điểm chương trình phát hành trái phiếu hàng hóa với các đặc điểm chính là: (i) chủ thể phát hành trái phiếu là bộ tài chính, (ii) đối tượng nhắm đến là các doanh nghiệp sản xuất xi măng, sắt thép, VLXD..., (iii) kỳ hạn 3-5 năm, (iv) quy mô thí điểm tương đương khoảng 2 triệu tấn xi măng và 200 nghìn tấn sắt thép, (iv) mục tiêu là phục vụ chương trình phát triển kinh tế nông thôn tại 4 tỉnh đặc biệt nghèo (như Lai Châu, Điện Biên, Quảng Trị....), (v) giá hàng hóa các doanh nghiệp bán trong chương trình phải phải theo giá bán buôn với tỷ lệ chiết khấu khoảng 10-20%, và (vi) lãi trái phiếu chính phủ sẽ được trả bằng cách khấu trừ một phần vào nghĩa vụ tài chính mà các doanh nghiệp tham gia phải nộp Nhà nước. Nhu cầu khoảng 6.000 tỷ.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị Diên Hồng về DN này đòi hỏi Chính phủ cùng cộng đồng doanh nghiệp đồng lòng, đồng sức, vì mục tiêu chung phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng. Doanh nghiệp Việt Nam nhận thức rõ được trách nhiệm và vai trò lịch sử của mình, cam kết và nguyện đồng hành cùng Chính Phủ để vượt qua thách thức, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Để kết thúc, tôi xin được lấy hình ảnh công tác điều hành kinh tế của đất nước như 1 dàn nhạc giao hưởng; trong đó Chính phủ đóng vai trò là nhạc trưởng, Cơ quan quản lý đóng vai trò là nhạc công và các doanh nghiệp có vai trò là ca sĩ. Mục tiêu của chúng ta là làm sao bản giao hưởng chúng ta đang chơi cho giai đoạn 2016-2020 này phải trở thành tuyệt tác với đất nước.
Trân trọng cảm ơn !
© Bản quyền 2018 thuộc về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
Tháp BIDV, 194 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội
SĐT tiếp nhận: 19009247 (Cá nhân)/ 19009248 (Doanh nghiệp)/(+84-24) 22200588 - Fax: (+84-24) 22200399
SĐT gọi ra: 02422200588 - 0763238588 - 0784132388 - 0842152355 - 0822808588 - 0764263180 - 0764860580 - 0947591080 - 0398079599 - 0398127288 - 0382512188 - 0357823588
Email: bidv247@bidv.com.vn
Swift code: BIDVVNVX
Trang chủ
Cá nhân
Cá nhân cao cấp
Tuyển dụng